Nghiên cứu mới từ Vương quốc Anh cho thấy tầm quan trọng của việc tiêm cả hai liều vắc xin COVID-19 (loại hai liều). Sau khi được tiêm chủng đầy đủ, bạn sẽ được bảo vệ mạnh mẽ khỏi bị nhiễm SARS-CoV-2 và các biến thể hiện đang lưu hành…
Tầm quan trọng của liều vắc xin thứ 2
Các nhà khoa học xác nhận rằng, sau một liều vắc xin (loại hai liều), bạn sẽ chỉ có phản ứng miễn dịch tương đối yếu chống lại loại coronavirus mới. Trong một nghiên cứu gần đây, Tổ chức Y tế công cộng Anh (PHE) phát hiện ra rằng liều thứ hai không chỉ bảo vệ bạn khỏi n.hiễm t.rùng SARS-CoV-2 mà nó còn cung cấp sự bảo vệ mạnh mẽ chống lại các chủng coronavirus, chẳn hạn như một biến thể được phát hiện đầu tiên ở Ấn Độ (B.1.617.2).
TS. Mary Ramsay, trưởng bộ phận tiêm chủng tại PHE, cho biết: Chúng tôi hy vọng vắc xin sẽ hiệu quả hơn nữa trong việc ngăn ngừa nhập viện và t.ử v.ong. Vì vậy, điều quan trọng là phải tiêm cả hai liều để đạt được sự bảo vệ tối đa chống lại tất cả các biến thể của COVID-19.
Cả hai loại vắc xin đều cung cấp khả năng bảo vệ tối thiểu chống lại các biến thể chỉ sau một liều. Nghiên cứu PHE đã phân tích dữ liệu cho tất cả các nhóm t.uổi và một số sắc tộc từ ngày 5 tháng 4, và bao gồm hơn 1.000 người đã nhiễm biến thể này bằng cách sử dụng giải trình tự gen. Điều quan trọng là, cả hai loại vắc xin này chỉ có hiệu quả khoảng 33% đối với bệnh nhân có triệu chứng của biến thể B.1.617.2 và chỉ 50% hiệu quả đối với biến thể phổ biến hơn được phát hiện lần đầu tiên ở Vương quốc Anh (B.1.1.7) sau một liều duy nhất.
Tiêm đầy đủ các mũi vắc xin sẽ mang lại sự bảo vệ hiệu quả.
Tuy nhiên, sau hai liều, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, vắcxin Pfizer có hiệu quả 88% đối với bệnh nhân có triệu chứng từ biến thể B.1.617.2 và 93% hiệu quả đối với biến thể B.1.1.7. Các tỷ lệ phần trăm này được ghi lại 2 tuần sau liều thứ hai. Họ cũng phát hiện ra rằng hai liều vắc xin AstraZeneca có hiệu quả 60% đối với bệnh có triệu chứng từ biến thể B.1.617.2 và 66% hiệu quả đối với biến thể B.1.1.7.
Hiệu quả thấp hơn của vắc xin AstraZeneca sau hai liều, khi so sánh với Pfizer, có thể là do chủ yếu được tiêm cho người lớn t.uổi, một nhóm có xu hướng phản ứng miễn dịch yếu hơn. Các chuyên gia khẳng định, vắc xin cung cấp khả năng bảo vệ hơn 90% chống lại COVID-19.
Các biến thể COVID-19
Có ba kiểu phụ của biến thể lần đầu tiên được phát hiện ở Ấn Độ, mỗi kiểu có cấu tạo gen hơi khác nhau: B.1.617.1 (bản gốc B.1.617), B.1.617.2, B.1.617.3.
Biến thể B.1.617.2 có các đột biến được gọi là 452R và 478K, cả hai đều liên quan đến việc tăng khả năng truyền nhiễm. Không có đột biến nào trong bất kỳ kiểu nào của biến thể B.1.617 có liên quan đến việc gia tăng mức độ nghiêm trọng của bệnh.
Các nhà khoa học cho biết, có khả năng B.1.617.2 dễ lây truyền hơn 50% so với B.1.1.7. và các loại vắc xin hiện tại có hiệu quả chống lại các biến thể này.
Theo TS David Hirschwerk, một chuyên gia về các bệnh truyền nhiễm tại Northwell Health, New York, mặc dù các loại vắc xin hiện có vẫn rất hiệu quả đối với các biến thể mới nổi, nhưng không có gì đảm bảo rằng sẽ không phát sinh ra các biến thể có thể chống lại tác dụng của vắc xin.
Làm gì để hạn chế virus nhân lên?
Cách tốt nhất để giảm khả năng chống lại các biến thể mới là hạn chế sự nhân lên của virus đang diễn ra trên toàn thế giới. Vì vậy, cần nhiều người hơn được tiêm vắc xin ở khắp mọi nơi. Các nhà khoa học nhấn mạnh rằng, việc tiêm vắc xin cho những người trẻ t.uổi cũng rất quan trọng. Bởi họ có xu hướng di chuyển nhiều hơn trong cộng đồng. Những người trẻ t.uổi chưa được tiêm chủng có nguy cơ mắc và truyền vi rút cao hơn.
Hy vọng trong thời gian tới có nhiều người hơn nữa được tiêm vắc xin COVID-19 để tạo miễn dịch cộng đồng và ngăn chặn virus sinh sôi.
Gene có thể đóng vai trò quyết định khả năng miễn dịch đối với COVID-19
Các kháng thể vô hiệu hoá virus có thể phát triển trong vòng hai tuần sau khi nhiễm SARS-CoV-2, nhưng độ bền và cường độ của chúng có thể khác nhau tùy theo từng cá nhân, gây ra lo ngại về triển vọng miễn dịch lâu dài và hiệu quả của vắc xin COVID-19.
Một tập hợp các gen biến đổi mã cần thiết cho hệ miễn dịch thích ứng.
Các nhà nghiên cứu tại Đại học California, Trường Y khoa San Diego của Mỹ cho biết , phản ứng miễn dịch của mỗi cá nhân đối với SARS-CoV-2, loại virus gây ra COVID-19, có thể bị hạn chế bởi tính tương hợp lớn. phức hợp hoặc MHC, một tập hợp các gene biến đổi mã cho các protein bề mặt tế bào cần thiết cho hệ miễn dịch thích ứng.
Cụ thể, các tác giả cao cấp Maurizio Zanetti, giáo sư y khoa, Hannah Carter, phó giáo sư y khoa và các đồng nghiệp đã kiểm tra cách MHC tương tác với hai loại tế bào lympho hoặc tế bào miễn dịch được gọi là T và B.
GS Zanetti cho biết: “Hệ miễn dịch phản ứng với các mầm bệnh xâm nhập bằng cách sản xuất ra các kháng thể nhằm ngăn chặn và vô hiệu hóa mầm bệnh. Việc sản xuất các kháng thể chống lại protein đòi hỏi sự hợp tác hiệu quả giữa tế bào lympho T và tế bào lympho B, cả hai tế bào này đều phải nhận ra các trình tự kháng nguyên liền kề do MHC khởi xướng trên tế bào B. Các chuỗi peptit ở gần nhau tương tác với hai tế bào một cách ưu tiên và không ngẫu nhiên. MHC đóng vai trò là liên kết giữa các tế bào lympho T và B trong quá trình này. ”
Dựa trên lý luận này, các nhà nghiên cứu đã phân tích một cách tính toán tất cả các đoạn có thể có của protein đột biến RBM, là yếu tố kích hoạt cả phản ứng miễn dịch của con người và hoạt động của vắc-xin, liên quan đến hơn 5.000 phân tử MHC khác nhau có trong dân số toàn cầu.
Trước sự ngạc nhiên này, các tác giả nhận thấy rằng xu hướng trung bình của MHC để hiển thị các peptit có nguồn gốc RBD là thấp. Vì liên kết MHC là một thước đo gián tiếp xác suất tế bào T sẽ được kích hoạt và kích thích tế bào lympho B sản xuất kháng thể chống lại RBM, các tác giả cho biết sau đó việc sản xuất kháng thể đặc hiệu RBM có thể bị cản trở bởi sự phù hợp kém của những phần này của virus đến MHC.
Tác giả đầu tiên Andrea Castro, thành viên phòng thí nghiệm của Carter cho biết: “Điều này sau đó có thể dẫn đến phản ứng kháng thể vô hiệu hóa kém hơn. Và trong trường hợp của SARS-CoV-2, sự trình bày kém của các đoạn RBD quan trọng bởi nhiều alen MHC có thể là một trở ngại cho việc sản xuất các kháng thể trung hòa nhắm mục tiêu RBM.”
Các nhà khoa học gợi ý rằng, t.iền sử miễn dịch của các cá nhân có thể đóng một vai trò trong phản ứng của tế bào T và sự hoạt hóa sau đó của tế bào lympho B có thể tạo ra các kháng thể trung hòa có mục tiêu mạnh mẽ.
Carter cho biết, những tác động tiềm tàng của nghiên cứu là gấp đôi.
Ông nói: “Một là khả năng tạo ra các kháng thể có hoạt tính trung hòa mạnh có thể khác nhau đáng kể giữa các cá thể trong quần thể nói chung, phản ánh sự đa dạng di truyền lớn của MHC. Hai là, việc thiếu sự hợp tác hiệu quả giữa các tế bào lympho T và B có thể ảnh hưởng đến t.uổi thọ của các phản ứng kháng thể trung hòa ở người bị nhiễm bệnh. ”
Các tác giả lưu ý rằng, nhiều nghiên cứu đã báo cáo rằng các kháng thể trung hòa ở những người bị nhiễm bệnh (bệnh nhân nằm viện, nhân viên chăm sóc sức khỏe và người đang dưỡng bệnh) giảm trong vòng ba tháng.
Zanetti cho biết: “Đối với những cân nhắc này, người ta có thể thêm tác động của các biến chủng mới được phát hiện trong RBM, chẳng hạn như các biến chủng xuất hiện ở Anh, Nam Phi và Brazil . Cấu trúc liên kết của các đột biến trong các biến chủng mới này là dấu hiệu của sự phá vỡ tiềm năng hơn nữa của chuyển tiếp miễn dịch giữa các tế bào lympho T và B, với tác động tiêu cực bổ sung đến khả năng của các cá nhân trong dân số toàn cầu để tạo ra các phản ứng kháng thể trung hòa chất lượng cao và tồn tại lâu dài chống lại SARS-CoV-2.”