Những loại virus nguy hiểm có thể tàn phá lá gan của bạn

Viêm gan là một trong những loại bệnh gan phổ biến nhất hiện nay. Cùng với đại dịch Covid-19, viêm gan virus đang cướp đi hàng nghìn sinh mạng mỗi ngày.

Viêm gan virus được phân thành 5 loại chính: Viêm gan A, B, C, D và E.

Viêm gan A và E: V irus viêm gan A và E truyền nhiễm qua đường tiêu hóa, từ các loại thức ăn, nước uống có nguồn gây bệnh. Điển hình là virus lây lan qua phân của người bệnh làm ô nhiễm nguồn nước hoặc nguồn lương thực thực phẩm. Các triệu chứng điển hình của viêm gan A và E có thể bao gồm: vàng da, đau dạ dày, màu sắc nước tiểu thay đổi, chán ăn, đau mỏi khớp, mệt mỏi, sốt… Trong đó, viêm gan E thường xuất hiện ở những vùng thiếu nước sạch, vệ sinh môi trường và vệ sinh cá nhân kém. Với đa số các trường hợp viêm gan A và E, người bệnh có thể tự hồi phục, hầu hết có thể khỏi bệnh trong vòng vài tháng. Tuy nhiên với những người có khả năng miễn dịch kém, người già, người có bệnh nền khác hoặc phụ nữ có thai, bệnh có thể diễn biến nặng hơn và gây nguy hiểm.

nhung loai virus nguy hiem co the tan pha la gan cua ban dc8 5800640

Viêm gan B và C: Đây là hai dạng viêm gan phổ biến với sự mờ nhạt của các dấu hiệu. Các triệu chứng của viêm gan B và C thường không xuất hiện ngay lập tức khi cơ thể nhiễm bệnh. Người bệnh có thể không có biểu hiện bệnh trong thời gian lên đến 12 tuần, và trong thời gian này, bệnh luôn có khả năng lây nhiễm. Triệu chứng điển hình của viêm gan B và C bao gồm: nước tiểu sẫm màu, cơ thể đau nhức (chủ yếu ở cơ khớp), đau bụng, vàng da, vàng mắt, kén ăn, suy nhược. Virus viêm gan B và C có thể lây lan khi quan hệ t.ình d.ục, qua đường m.áu như sử dụng chung bơm kim tiêm bị phơi nhiễm và mẹ truyền sang con trong thời kỳ mang thai. Người già, người có t.iền sử bệnh gan, bệnh thận hay tiểu đường, suy giảm hệ miễn dịch có nguy cơ cao mắc viêm gan B và C.

Viêm gan D: Một người chỉ có thể bị nhiễm viêm gan D nếu họ đã bị nhiễm viêm gan B. Điều này xảy ra theo hai cách: Viêm gan D và B có thể nhiễm cùng một lúc thông qua m.áu hoặc chất dịch cơ thể; hoặc người đó có thể bị nhiễm viêm gan B trước, sau đó bị nhiễm viêm gan D.

Hầu hết những người bị viêm gan D cấp tính sẽ cảm thấy mệt mỏi, buồn nôn và có nước tiểu sẫm màu hoặc đau bụng. Những người bị viêm gan D mãn tính có thể sẽ không có triệu chứng cho đến khi tổn thương gan xảy ra, khiến họ sụt cân và vàng da vàng mắt.

Phòng chống viêm gan

Các bệnh viêm gan có thể được ngăn ngừa bằng cách tiêm chủng và tránh tất cả các yếu tố nguy cơ.

nhung loai virus nguy hiem co the tan pha la gan cua ban 2c6 5800640

Những người bị bệnh gan, thận mãn tính hoặc HIV/AIDS phải tiêm phòng vì viêm gan virus ở những bệnh nhân này có thể dễ dàng chuyển sang các giai đoạn nghiêm trọng. Trước khi đi du lịch hay công tác ở bất kỳ quốc gia, khu vực nào có lưu hành các loại bệnh viêm gan, phải đảm bảo cơ thể đã được chủng ngừa. Giữ gìn vệ sinh môi trường, nơi ở và vệ sinh cá nhân, ăn chín uống sôi, đặc biệt lưu ý trong sử dụng thức ăn nước uống ở các vùng hay khu vực có nguy cơ viêm gan cao. Tránh dùng chung các vật dụng cá nhân, nhất là các dụng cụ có thể đ.âm x.uyên da như dao cạo hay kim tiêm.

Bệnh tự miễn thường gặp

Do có sự trục trặc của hệ thống phòng vệ cơ thể, gây ra sự nhận diện nhầm lẫn giữa tác nhân gây bệnh và tế bào của các cơ quan, dẫn đến sự xung đột tự thân làm xuất hiện các bệnh tự miễn…

benh tu mien thuong gap c14 5270084

Bệnh tự miễn do có sự trục trặc của hệ thống phòng vệ cơ thể. Ảnh: ITN

Không lây nhưng khó chữa

Cơ thể con người có khả năng sản sinh ra các loại “vũ khí sinh học” chống lại các tác nhân gây bệnh. Tác nhân gây bệnh chính là kháng nguyên và “vũ khí sinh học” chính là kháng thể. Tuy nhiên, do một sự “nhầm lẫn” nào đó từ lập trình bí mật của tạo hóa, nên vũ khí của cơ thể đã tự chống lại chính bản thân của mình và gây ra các hệ lụy về sức khỏe.

Các nhà chuyên môn gọi các bệnh do chính cơ thể gây ra cho mình là bệnh tự miễn. Bệnh tự miễn có thể xảy ra ở bất cứ cơ quan nào trong cơ thể và thường có mối liên quan chặt chẽ với nhau.

Đặc điểm của bệnh tự miễn thường là mạn tính, không lây và khó chữa khỏi hoàn toàn. Chúng có thể diễn biến ngày càng nặng hơn nên cần được phát hiện sớm để ngăn chặn sự
tiến triển.

Cơ chế gây bệnh

benh tu mien thuong gap 39f 5270084

Hạch cổ, một trong những dấu hiệu của bệnh tự miễn. Ảnh: ITN.

Hệ thống miễn dịch là hệ thống tự bảo vệ của cơ thể. Nó giúp chống lại sự xâm nhập của các tác nhân gây bệnh là vi khuẩn, virus, ký sinh trùng hoặc nấm…

Bình thường, hệ miễn dịch không chống lại các tế bào của thân chủ. Nhưng vì một sự “trục trặc” nào đó, hệ miễn dịch có sự nhầm lẫn khi nhận diện quân thù, nên tấn công luôn cả các tế bào của cơ thể.

Thực ra, đến nay nguyên nhân và cơ chế gây bệnh tự miễn hãy còn nhiều điều chưa rõ do tính chất phức tạp của bệnh. Vì vậy, việc điều trị bệnh tự miễn chỉ mới dừng lại ở mức độ ngăn chặn sự tiến triển mà không giải quyết được tận gốc rễ của vấn đề.

Hiện nay, các nhà chuyên môn thống nhất cách giải thích bệnh tự miễn qua 4 nguyên nhân sau đây:

Một là, có sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa kháng nguyên (virus, vi khuẩn, độc tố…) với một thành phần của cơ thể. Nên kháng thể tạo ra từ hệ thống miễn dịch “vô tình” chống lại cả hai. Tiêu biểu như bệnh
thấp tim.

Hai là, do tác động của chấn thương, nhiễm khuẩn, nhiễm độc… nên một số tế bào cơ thể bị biến đổi cấu trúc trở thành tác nhân lạ và bị hệ thống miễn dịch t.iêu d.iệt. Tiêu biểu như viêm gan virus. Ba là, một số khu vực trong cơ thể m.áu không đến trực tiếp được, nên tế bào miễn dịch thiếu sự nhận diện.

Do đó, khi tế bào vùng đó xuất hiện trong m.áu, mặc nhiên được xem như kẻ lạ cần phải loại trừ. Tiêu biểu như chấn thương mắt bên này, mắt bên kia cũng bệnh theo trong trường hợp bệnh viêm mắt giao cảm (ophtalmie sympathique).

Bốn là, hệ thống miễn dịch bị suy yếu hoặc mất khả năng kiểm soát nên các tế bào miễn dịch rối loạn hoạt động đã sinh ra tự kháng thể chống lại chính các tế bào của cơ thể mà trước đây vốn được xem là
thân thuộc.

Đặc điểm chung của bệnh

T.rẻ e.m và người già ít mắc. Bệnh nhân chủ yếu tập trung ở độ t.uổi 20 – 40. Nữ mắc nhiều hơn nam, thường có yếu tố di truyền.

Bệnh tiến triển nặng dần, từng đợt, biểu hiện đa dạng, phức tạp từ nhẹ nhàng, dai dẳng đến nặng nề, cấp tính. Thương tổn có thể xảy ra đồng thời ở nhiều bộ phận trong cơ thể.

Bệnh có thể được “phát động” trong bối cảnh của n.hiễm t.rùng, nhiễm độc, thai nghén, stress thể chất, tinh thần, sau dùng thuốc điều trị hoặc do tác động của các tác nhân lý hóa khác.

Sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch nhóm corticoide, thường đáp ứng khá tốt.

Nghĩ đến bệnh tự miễn khi làm các xét nghiệm m.áu thấy giảm vô cớ hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, tăng tế bào lympho, tăng tốc độ lắng m.áu, tăng gamma globuline (-globulin).

Chẩn đoán xác định bệnh tự miễn dựa vào sự phát hiện của các tự kháng thể trong cơ thể. Các xét nghiệm càng đặc hiệu càng đặc hiệu, càng chính xác. Nhưng việc này chỉ có thể thực hiện tại các phòng xét nghiệm cao cấp mang tính chuyên sâu.

Biện pháp phòng tránh

Các chuyên gia y học cho rằng, xã hội ngày càng phát triển con người càng chịu nhiều áp lực và tác động từ môi trường nên bệnh tự miễn có khuynh hướng gia tăng với mức độ thương tổn ngày càng trầm trọng hơn.

Chế độ ăn uống tốt, làm việc và nghỉ ngơi hợp lý, tránh các thói quen không tốt, không sử dụng bừa bãi các loại thuốc điều trị, chú ý rèn luyện cơ thể là những cách tốt nhất để bảo vệ hệ miễn dịch của cơ thể con người. Nhờ đó mà phòng tránh được bệnh tật nói chung và bệnh tự miễn nói riêng.

Việc khám sức khỏe định kỳ, phát hiện sớm những nghi ngờ mắc bệnh tự miễn để có biện pháp theo dõi thích hợp và kịp thời ngăn chặn sự tiến triển
của bệnh.

Có nhiều loại bệnh tự miễn khác nhau, xin giới thiệu bệnh tự miễn thường gặp nhất.

Bệnh Basedow còn có tên gọi là bướu cổ lồi mắt. Trong bệnh Basedow, lồi mắt là dấu hiệu điển hình nhất của bệnh và cũng xảy ra ở giai đoạn muộn. Bệnh Basedow, có vẻ như “ái” nữ hơn nam, nên có đến 80% người mắc bệnh là phụ nữ trẻ trong độ t.uổi từ 21 – 30.

Các biểu hiện thường gặp ở người mắc bệnh Basedow: Tinh thần bất ổn, khó ngủ hoặc mất ngủ, ăn nhiều nhưng vẫn sụt cân, run tay… và nhiều khi có biểu hiện như bị bướu cổ. Bệnh Basedow còn tác động đến hệ thống tim mạch, khám thấy mạch nhanh. Nếu không được điều trị hoặc điều trị không đúng cách thì bệnh nhân có thể t.ử v.ong do suy tim và suy kiệt nặng.

Việc điều trị bệnh Basedow nhằm mục đích bình ổn chức năng hoạt động của tuyến giáp. Hiện, vẫn chưa giải thích được nguyên nhân sinh bệnh cho dù khoa học đã có nhiều tiến bộ trong hiểu biết về cơ chế bệnh sinh. Có ba phương pháp điều trị căn bản là điều trị nội khoa với các thuốc kháng giáp tổng hợp – phẫu thuật – và xạ trị bằng iode đồng vị phóng xạ.

Thời gian điều trị bằng thuốc thường kéo dài 6 – 18 tháng. Có trường hợp sau đợt điều trị tuyến giáp nhỏ lại cùng với sự biến mất của các triệu chứng khác. Nhưng cũng có trường hợp tuyến giáp vẫn lớn. Bướu lớn trên cổ liên quan đến vấn đề thẩm mỹ.

Nếu không muốn “sống chung” với bướu thì người bệnh sau đợt dùng thuốc cần tái khám sớm để được phẫu thuật. Trong các trường hợp bướu gây chèn ép khó thở hoặc sau ngưng thuốc bệnh tái phát nhanh thì vấn đề phẫu thuật sẽ được đặt ra như là một điều tất yếu.

(Còn nữa)

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *