Bởi lẽ sự so sánh ấy là hoàn toàn vô nghĩa. Chúng ta không thể so sánh Pfizer với Moderna, Johnson & Johnson, AstraZeneca hoặc Sinopharm được.
Đầu tháng 3/2021, thành phố Detroit (Michigan, Mỹ) chuẩn bị nhận được lô hàng 6200 liều vaccine từ Johnson & Johnson. Nhưng thật bất ngờ, thị trưởng thành phố – ông Mike Duggan thẳng thừng từ chối. Ông bảo rằng ông sẽ chỉ tin tưởng vào vaccine Pfizer/BioNTech và Moderna, vì đó là những loại tốt nhất.
Ý của Duggan liên quan đến những con số gọi là “tỉ lệ hiệu quả ngăn ngừa” của vaccine. Theo đó, vaccine của Pfizer có chỉ số này lên tới 95% vào 7 ngày sau mũi thứ 2. Của Moderna là 94% vào ngày thứ 14 sau mũi thứ 2. Để so sánh, Johnson & Johnson là 66%, sau 28 ngày.
Và nếu như chỉ nhìn vào các chỉ số như vậy, có thể thấy AstraZeneca và Johnson & Johnson có hiệu quả kém nhất, nếu so với nhóm đầu bảng như trong bức hình dưới đây!
Nguồn ảnh: Vox
Nhưng vấn đề là giả định về sự hiệu quả của vaccine nếu chỉ dựa vào chỉ số này thì hoàn toàn không đúng. Mọi thứ không đơn giản chỉ có như vậy, và chúng ta đã hiểu sai về “hiệu quả” của vaccine là như thế nào.
Cách các hãng tính “chỉ số hiệu quả” của vaccine
Chỉ số hiệu quả của vaccine được tính thông qua thử nghiệm lâm sàng quy mô lớn, khi các hãng tiến hành thử nghiệm trên hàng chục ngàn người. Những người tham gia sẽ được chia làm 2 nhóm: Một nửa được tiêm vaccine, và nửa còn lại được tiêm giả dược (placebo).
Sau khi tiêm, tất cả trở lại cuộc sống bình thường nhưng được các chuyên gia theo dõi sát sao trong vài tháng, để xem liệu họ có nhiễm Covid-19 hay không!
Như thử nghiệm lâm sàng của Pfizer được thực hiện trên 43.000 người. Đến cuối cùng, 170 người dương tính với Covid-19. Nhưng điều quan trọng nằm ở việc 170 người này phân bổ thế nào vào 2 nhóm trên mới ra được chỉ số hiệu quả của vaccine.
Sự hiệu quả của vaccine nằm ở tỉ lệ nhiễm được phân bổ ở nhóm được tiêm và không được tiêm (Ảnh: Vox)
Nếu như tỉ lệ phân bổ là 50-50 (mỗi nhóm có 85 người), có nghĩa người được tiêm có rủi ro nhiễm bệnh chỉ ngang ngửa người không tiêm, và chỉ số hiệu quả là 0%. Nếu nhóm placebo chiếm trọn, tỉ lệ hiệu quả là 100%. Trong trường hợp của Pfizer, có đến 162 người nhiễm bệnh ở nhóm không tiêm, và chỉ có 8 người thuộc nhóm đã tiêm, nên tỉ lệ hiệu quả là 95%.
Nhưng con số 95% này cũng có sự hiểu nhầm. Nó không có nghĩa cứ 100 người được tiêm sẽ có 5 người nhiễm bệnh. Đây là tỉ lệ áp dụng cho từng cá nhân – người được tiêm sẽ có ít rủi ro nhiễm bệnh hơn người không tiêm 95% nếu không may tiếp xúc với mầm bệnh. Đây cũng là cách mà toàn bộ các hãng vaccine hiện nay áp dụng để tính toán tỉ lệ hiệu quả của mình.
Tại sao không thể so sánh chỉ số hiệu quả của các loại vaccine?
Đơn giản là vì thử nghiệm lâm sàng của mỗi loại vaccine được thực hiện trên các điều kiện khác nhau hoàn toàn.
“Một trong những điều đáng chú ý nhất khi chúng ta nhìn vào những con số này (tỉ lệ hiệu quả), đó là thời điểm thực hiện thử nghiệm lâm sàng,” – Deborah Fuller, chuyên gia sinh học từ ĐH Washington (Mỹ) lên tiếng.
Lấy ví dụ từ 3 loại vaccine Pfizer, Moderna và Johnson & Johnson. Biểu đồ dưới đây cho thấy thử nghiệm lâm sàng của Pfizer và Moderna rơi vào tháng 8 – 11/2020, giai đoạn dịch bệnh tại Mỹ đang hạ nhiệt. Johnson & Johnson thì khác, họ thử nghiệm lâm sàng từ giữa tháng 11 cho đến cuối tháng 1/2021, thời điểm ca nhiễm tăng vọt, nghĩa là khả năng tiếp xúc với ca bệnh của các ứng viên tham gia là nhiều hơn hẳn.
Biểu đồ ca nhiễm và giai đoạn thử nghiệm lâm sàng của 3 hãng vaccine tại Mỹ (Nguồn: Vox)
Thêm vào đó, Johnson & Johnson còn thực hiện thử nghiệm lâm sàng tại các nước khác như Nam Phi và Brazil. Những nơi ấy không chỉ có tỉ lệ lây nhiễm cao hơn, mà chủng bệnh cũng khác biệt (như biến chủng B.1.351 của Nam Phi, và P.2 của Brazil). Thử nghiệm của Johnson & Johnson rơi vào đúng thời điểm các biến chủng xuất hiện và trở thành chủng chiếm ưu thế tại các quốc gia được lựa chọn, và đó đều là các chủng có khả năng lây nhiễm nhanh hơn.
Số liệu cho thấy, 67% các ứng viên tham gia thử nghiệm lâm sàng bị nhiễm bệnh tại châu Phi là tác phẩm của biến chủng mới, chứ không phải chủng bệnh hoành hành tại Mỹ suốt mùa hè năm 2020. Nhưng bất chấp như vậy, tỉ lệ hiệu quả vẫn ở mức 64%.
“Nếu muốn so sánh 2 loại vaccine với nhau, chúng ta sẽ cần so chúng ở cùng thử nghiệm, cùng điều kiện, cùng thời điểm và địa điểm,” – chuyên gia Amesh Adalja từ ĐH Johns Hopkins nhận định.
“Nếu yêu cầu Pfizer và Moderna thực hiện lại thử nghiệm lâm sàng ở cùng điều kiện với Johnson & Johnson, chúng ta sẽ thấy tỉ lệ hiệu quả rất khác biệt,” – Fuller bổ sung thêm.
Nói cách khác, chỉ số hiệu quả của vaccine chỉ cho chúng ta thấy chuyện gì đã xảy ra trong thử nghiệm lâm sàng của mỗi loại, chứ không hoàn toàn là những gì sẽ xảy ra khi áp dụng vào thực tiễn.
Chỉ số hiệu quả ngăn ngừa không phải mục đích thực sự của vaccine Covid-19
Thậm chí, một số chuyên gia còn cho rằng đây không phải là các chỉ số tốt nhất để đ.ánh giá sự hiệu quả của một loại vaccine. Bởi lẽ, việc chặn đứng toàn bộ khả năng nhiễm bệnh không phải là mục đích chính của các chương trình tiêm chủng.
“Mục đích của các chương trình tiêm chủng Covid-19 hiện nay không phải là để đưa thế giới về mức không có ca nhiễm, mà là để kìm hãm virus, khiến nó bớt nguy hiểm hơn, giảm khả năng gây ra triệu chứng nghiêm trọng, giảm mức cần thiết phải nhập viện, và giảm ca t.ử v.ong,” – trích lời Adalja.
Lấy ví dụ với một người bình thường, tình huống lý tưởng nhất là không nhiễm bệnh, và xấu nhất là nhiễm bệnh rồi c.hết. Nhưng đại dịch không đơn giản như vậy. Ở giữa nó là nhiều mốc khác: Nhiễm bệnh mà không có triệu chứng, có triệu chứng nhẹ, có triệu chứng nặng, rồi nhập viện và t.ử v.ong.
Trong tình huống lý tưởng nhất, vaccine sẽ giúp chúng ta hoàn toàn ngăn chặn được khả năng nhiễm bệnh. Nhưng trong thực tế, nó hoàn toàn không khả thi và cũng không phải là mục đích các chương trình tiêm chủng nhắm đến. Mục tiêu thực sự là cung cấp đủ miễn dịch cho con người nhằm tránh được 3 kịch bản xấu nhất, đưa Covid-19 trở về một căn bệnh giống như cảm cúm, thay vì một thứ có thể khiến bạn buộc phải nhập viện rồi không thể trở về nữa.
Và đoán xem, mục tiêu ấy là thứ mà toàn bộ các loại vaccine hiện nay đều làm được, thậm chí là rất tốt. Ở toàn bộ các thử nghiệm lâm sàng, trong khi nhóm không tiêm chủng có người phải nhập viện, có người t.ử v.ong, thì những người đã tiêm mà nhiễm bệnh không một ai phải nhập viện cả (và cũng không ai c.hết).
“Một điều tôi muốn mọi người hiểu là toàn bộ các loại vaccine đều hiệu quả 100% trong việc ngăn chặn t.ử v.ong,” – Fuller chia sẻ.
Sự hiệu quả trong khả năng ngăn chặn virus của vaccine có quan trọng, nhưng không phải là vấn đề quan trọng nhất. Thứ bạn nên quan tâm không phải là vaccine nào sẽ giúp ngăn ngừa dịch bệnh, mà là vaccine nào giúp bạn sống sót, hoặc không phải nhập viện nếu nhiễm bệnh. Và câu trả lời là toàn bộ các loại vaccine hiện nay, dù là Pfizer, Moderna của Mỹ, AstraZeneca của Anh, hay Sinopharm của Trung Quốc.
Phát triển vắc xin COVID-19 cho trẻ nhỏ
Các chuyên gia cho biết, điều quan trọng là phải tiêm phòng cho t.rẻ e.m ở mọi lứa t.uổi để đạt được khả năng miễn dịch cộng đồng.
Các thử nghiệm lâm sàng đang được tiến hành để kiểm tra vắc xin ở trẻ nhỏ hơn. Dự kiến vắc xin COVID-19 cho t.rẻ e.m dưới 12 t.uổi sẽ có vào tháng 9 hoặc tháng 10 năm nay.
Khi nào trẻ có thể đủ điều kiện tiêm vắc xin COVID-19?
Nhiều người đặt ra câu hỏi: Khi nào trẻ có thể đủ điều kiện tiêm vắc xin COVID-19? Điều này còn phụ thuộc vào độ t.uổi của trẻ và loại vắc xin có sẵn. Mới đây, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) đã cấp phép sử dụng khẩn cấp đối với vắc xin Pfizer cho t.rẻ e.m từ 12 đến 16 t.uổi. Trong khi đó, các thử nghiệm lâm sàng đang được tiến hành để kiểm tra tính an toàn và hiệu quả của vắc xin COVID-19 ở t.rẻ e.m dưới 12 t.uổi.
TS. Dean A. Blumberg, trưởng khoa Bệnh Truyền nhiễm Nhi khoa tại Đại học California, cho biết: Không có sự khác biệt giữa một đ.ứa t.rẻ 12 t.uổi và 11 t.uổi, nhưng cần thực hiện các nghiên cứu để chứng minh rằng vắc xin là an toàn và hiệu quả.
Các thử nghiệm lâm sàng đang được tiến hành để kiểm tra vắc xin ở trẻ nhỏ hơn.
Cần phải thực hiện nghiên cứu theo các độ t.uổi khác nhau vì liều lượng có thể cần được điều chỉnh: Giảm liều nếu đó là liều dựa trên cân nặng hoặc có thể tăng liều do hệ miễn dịch chưa trưởng thành và để tìm kiếm bất kỳ loại nào các tác dụng phụ bất thường có thể xảy ra trong khi đạt được phản ứng miễn dịch mạnh mẽ.
Các thử nghiệm lâm sàng hiện có
Hiện tại, Pfizer đang tiến hành thử nghiệm lâm sàng ở t.rẻ e.m khỏe mạnh từ 6 tháng đến 11 t.uổi. T.rẻ e.m đang được nghiên cứu ở ba nhóm t.uổi: 6 tháng đến 2 t.uổi, 2 đến 5 t.uổi và 5 đến 12 t.uổi.
Moderna cũng đang tiến hành thử nghiệm lâm sàng cho t.rẻ e.m từ 6 tháng đến 11 t.uổi. Johnson & Johnson và Novavax đang tiếp tục thử nghiệm ở thanh thiếu niên từ 12 đến 17 t.uổi.
Kết quả từ các thử nghiệm ở trẻ nhỏ dự kiến sẽ có vào cuối năm nay. Pfizer đã tuyên bố rằng, họ sẽ có đủ dữ liệu để gửi giấy phép sử dụng khẩn cấp cho trẻ nhỏ hơn vào tháng 9 hoặc tháng 10 năm nay.
Những phản ứng trái chiều
Theo các nhà nghiên cứu, sẽ có nhiều phản ứng trái chiều giữa các bậc cha mẹ về việc đưa trẻ đi tiêm chủng. Có một số phụ huynh rất muốn con mình được tiêm chủng vì sợ COVID-19 khiến trẻ có thể bị ốm. Họ muốn trẻ yên tâm trở lại trường học và được tham gia các hoạt động bình thường.
Nhưng cũng có những người lại muốn chờ xem hiệu quả thực sự của vắc xin như thế nào và không muốn mình là người đầu tiên tiêm chủng. Ngoài ra, còn một số người do dự về vắc xin. Tuy nhiên, để vắc xin được những người này ủng hộ, hiện tại cần tuyên truyền, giáo dục sao cho họ nhận thức được vắc xin là an toàn. Theo thống kê, đến nay, đã có hơn 1,3 tỷ liều vắc xin COVID-19 được tiêm trên toàn thế giới.
Tại sao tiêm chủng cho t.rẻ e.m lại quan trọng?
Các chuyên gia hy vọng khi vắc xin được chấp thuận sử dụng cho trẻ nhỏ, chúng ta sẽ tiến một bước gần hơn đến việc đạt được miễn dịch cộng đồng và trở lại cuộc sống bình thường.
Chừng nào còn một bộ phận đáng kể dân số không được miễn dịch, sẽ không tạo được miễn dịch cộng đồng, sẽ tiếp tục lây truyền và phân đoạn dân số đó sẽ dễ bị nhiễm bệnh.
Các chuyên gia cho hay, trong vài tuần qua, t.rẻ e.m đã chiếm hơn 20% số ca nhiễm COVID-19 mới. Đây là những ca nhiễm xảy ra ở một số người chưa có miễn dịch, những trẻ nhỏ hơn chưa đủ điều kiện để tiêm chủng.