Khoảng 90% bệnh nhân ung thư có đủ kháng thể virus SARS-CoV-2 sau khi tiêm chủng.
Nhân viên y tế điều trị cho bệnh nhân COVID-19 tại bệnh viện ở Vũ Hán, Trung Quốc. Ảnh: AFP/TTXVN
Theo trang mạng CIDRAP News, trong hai nghiên cứu vừa mới được xuất bản gần đây trên tập san học thuật JAMA Oncology về COVID-19 và bệnh nhân ung thư, các nhà khoa học đều nhận thấy các bệnh nhân có phản ứng miễn dịch tốt khi được tiêm vaccine ngừa COVID-19 của hãng Pfizer/BioNTech.
Trong nghiên cứu của Israel, nhóm khoa học thuộc bệnh viện Beilinson ở thành phố Petah Tikva đã so sánh độ nhạy huyết thanh virus SARS-CoV-2 ở 102 bệnh nhân trưởng thành đang điều trị liệu pháp tiêm tĩnh mạch đối với khối u với 78 người khỏe mạnh khác từ ngày 22/2 đến ngày 15/3/2021.
Cả hai nhóm đều được kiểm tra độ nhạy huyết thanh sau khi hoàn thành đủ 2 liều vaccine ít nhất 12 ngày. Độ t.uổi trung bình của nhóm bệnh nhân ung thư tham gia nghiên cứu là 66 t.uổi, trong đó có 57% là nam giới. Các khối u phổ biến nhất là đường tiêu hóa (28%), phổi (25%) và vú (18%).
Kết quả nghiên cứu cho thấy 90% bệnh nhân ung thư có đủ kháng thể trước virus SARS-CoV-2. Tuy nhiên, độ bền và thời gian miễn dịch đối với vaccine Pfizer ở bệnh nhân ung thư cũng như ý nghĩa của chúng trong khả năng bảo vệ cơ thể trước COVID-19 vẫn chưa được xác định.
Các nhà nghiên cứu giải thích: “Phản ứng miễn dịch tế bào ở bệnh nhân ung thư bị hạn chế, điều này có thể làm cơ sở cho việc giảm phản ứng của họ với vaccine và có thể khiến họ mẫn cảm hơn so với những người khỏe mạnh, ngay cả khi có đủ lượng kháng thể. Nó cũng có thể dẫn đến độ bền của lớp bảo vệ bị suy giảm”.
Tuy nhiên, các tác giả gợi ý tiêm vaccine ngừa COVID-19 có thể làm giảm bớt nỗi sợ hãi và căng thẳng cho bệnh nhân ung thư và những người chăm sóc họ, đồng thời cho phép bệnh nhân ung thư cảm thấy an toàn khi đang được chăm sóc tại các trung tâm y tế.
“Phát hiện của chúng tôi cho thấy việc tiêm ngừa COVID-19 cho những bệnh nhân như vậy trong quá trình điều trị ung thư dưới bất kỳ hình thức nào nên được ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên, cho đến khi mối tương quan giữa mức độ kháng thể và khả năng bảo vệ được thiết lập, bệnh nhân ung thư, giống như những người dân khác, nên tiếp tục đeo khẩu trang và thực hiện giãn cách xã hội”, các tác giả kết luận.
Nghiên cứu thứ hai do các nhà khoa học thuộc Bệnh viện Trung tâm Ung thư Quốc gia ở Tokyo thực hiện tiến hành đo tỷ lệ huyết thanh virus SARS-CoV-2 ở 500 bệnh nhân ung thư và 1.190 nhân viên y tế từ 16 t.uổi trở lên tại 2 bệnh viện từ ngày 3/8 đến ngày 30/10/2020.
Mục tiêu của nghiên cứu là có được bức tranh toàn cảnh hơn về sự lây lan COVID-19 trong các cơ sở chăm sóc bệnh nhân ung thư, nơi mà nhân viên y tế cũng có nguy cơ lây nhiễm cao. Trong tổng số bệnh nhân ung thư tham gia nghiên cứu, 1,0% có kháng thể trước virus SARS-CoV-2 trong khi tỷ lệ đó ở nhân viên y tế là 0,67%.
Bệnh nhân mắc ung thư thường là nhóm đối tượng có nguy cơ cao bị nhiễm SARS-CoV-2 và dễ xảy ra các biến chứng nghiêm trọng khác, bao gồm cả t.ử v.ong. Chính vì vậy, việc tiêm ngừa COVID-19 hay tìm ra một loại vaccine đặc hiệu cho cho nhóm bệnh nhân trong quá trình điều trị ung thư nên trở thành ưu tiên hàng đầu cho các nhà khoa học và nghiên cứu y tế.
Gene có thể đóng vai trò quyết định khả năng miễn dịch đối với COVID-19
Các kháng thể vô hiệu hoá virus có thể phát triển trong vòng hai tuần sau khi nhiễm SARS-CoV-2, nhưng độ bền và cường độ của chúng có thể khác nhau tùy theo từng cá nhân, gây ra lo ngại về triển vọng miễn dịch lâu dài và hiệu quả của vắc xin COVID-19.
Một tập hợp các gen biến đổi mã cần thiết cho hệ miễn dịch thích ứng.
Các nhà nghiên cứu tại Đại học California, Trường Y khoa San Diego của Mỹ cho biết , phản ứng miễn dịch của mỗi cá nhân đối với SARS-CoV-2, loại virus gây ra COVID-19, có thể bị hạn chế bởi tính tương hợp lớn. phức hợp hoặc MHC, một tập hợp các gene biến đổi mã cho các protein bề mặt tế bào cần thiết cho hệ miễn dịch thích ứng.
Cụ thể, các tác giả cao cấp Maurizio Zanetti, giáo sư y khoa, Hannah Carter, phó giáo sư y khoa và các đồng nghiệp đã kiểm tra cách MHC tương tác với hai loại tế bào lympho hoặc tế bào miễn dịch được gọi là T và B.
GS Zanetti cho biết: “Hệ miễn dịch phản ứng với các mầm bệnh xâm nhập bằng cách sản xuất ra các kháng thể nhằm ngăn chặn và vô hiệu hóa mầm bệnh. Việc sản xuất các kháng thể chống lại protein đòi hỏi sự hợp tác hiệu quả giữa tế bào lympho T và tế bào lympho B, cả hai tế bào này đều phải nhận ra các trình tự kháng nguyên liền kề do MHC khởi xướng trên tế bào B. Các chuỗi peptit ở gần nhau tương tác với hai tế bào một cách ưu tiên và không ngẫu nhiên. MHC đóng vai trò là liên kết giữa các tế bào lympho T và B trong quá trình này. ”
Dựa trên lý luận này, các nhà nghiên cứu đã phân tích một cách tính toán tất cả các đoạn có thể có của protein đột biến RBM, là yếu tố kích hoạt cả phản ứng miễn dịch của con người và hoạt động của vắc-xin, liên quan đến hơn 5.000 phân tử MHC khác nhau có trong dân số toàn cầu.
Trước sự ngạc nhiên này, các tác giả nhận thấy rằng xu hướng trung bình của MHC để hiển thị các peptit có nguồn gốc RBD là thấp. Vì liên kết MHC là một thước đo gián tiếp xác suất tế bào T sẽ được kích hoạt và kích thích tế bào lympho B sản xuất kháng thể chống lại RBM, các tác giả cho biết sau đó việc sản xuất kháng thể đặc hiệu RBM có thể bị cản trở bởi sự phù hợp kém của những phần này của virus đến MHC.
Tác giả đầu tiên Andrea Castro, thành viên phòng thí nghiệm của Carter cho biết: “Điều này sau đó có thể dẫn đến phản ứng kháng thể vô hiệu hóa kém hơn. Và trong trường hợp của SARS-CoV-2, sự trình bày kém của các đoạn RBD quan trọng bởi nhiều alen MHC có thể là một trở ngại cho việc sản xuất các kháng thể trung hòa nhắm mục tiêu RBM.”
Các nhà khoa học gợi ý rằng, t.iền sử miễn dịch của các cá nhân có thể đóng một vai trò trong phản ứng của tế bào T và sự hoạt hóa sau đó của tế bào lympho B có thể tạo ra các kháng thể trung hòa có mục tiêu mạnh mẽ.
Carter cho biết, những tác động tiềm tàng của nghiên cứu là gấp đôi.
Ông nói: “Một là khả năng tạo ra các kháng thể có hoạt tính trung hòa mạnh có thể khác nhau đáng kể giữa các cá thể trong quần thể nói chung, phản ánh sự đa dạng di truyền lớn của MHC. Hai là, việc thiếu sự hợp tác hiệu quả giữa các tế bào lympho T và B có thể ảnh hưởng đến t.uổi thọ của các phản ứng kháng thể trung hòa ở người bị nhiễm bệnh. ”
Các tác giả lưu ý rằng, nhiều nghiên cứu đã báo cáo rằng các kháng thể trung hòa ở những người bị nhiễm bệnh (bệnh nhân nằm viện, nhân viên chăm sóc sức khỏe và người đang dưỡng bệnh) giảm trong vòng ba tháng.
Zanetti cho biết: “Đối với những cân nhắc này, người ta có thể thêm tác động của các biến chủng mới được phát hiện trong RBM, chẳng hạn như các biến chủng xuất hiện ở Anh, Nam Phi và Brazil . Cấu trúc liên kết của các đột biến trong các biến chủng mới này là dấu hiệu của sự phá vỡ tiềm năng hơn nữa của chuyển tiếp miễn dịch giữa các tế bào lympho T và B, với tác động tiêu cực bổ sung đến khả năng của các cá nhân trong dân số toàn cầu để tạo ra các phản ứng kháng thể trung hòa chất lượng cao và tồn tại lâu dài chống lại SARS-CoV-2.”